Ung thư vòm họng, căn bệnh NS Giang Còi mắc phải, được điều trị thế nào?

Hóa trị ung thư là phương pháp t.iêu d.iệt tế bào ác tính hiệu quả, tuy nhiên lại có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm. Nhiều người không muốn chịu đau đớn, nguy hiểm đã từ chối hóa trị, trong đó có nghệ sĩ Giang Còi.

ung thu vom hong can benh ns giang coi mac phai duoc dieu tri the nao 398 5536173

Ảnh minh họa.

Các giai đoạn của bệnh ung thư vòm họng

Ung thư vòm họng được chia làm 4 giai đoạn với các khác biệt đặc trưng về vị trí và xâm lấn liên quan của khối ung thư.

Giai đoạn 1: Hình ảnh ung thư vòm họng giai đoạn đầu là một khối u nhỏ trong vòm họng, kích thước không quá 2,5 cm và thường bắt đầu ở dây thanh âm rồi tiến vào thanh quản.

Giai đoạn 2: Ở giai đoạn vẫn được coi là giai đoạn đầu của quá trình ung thư vòm họng nhưng kích thước khối ung thư đã tăng lên khoảng 5-6 cm.

Giai đoạn 3: Lúc này khối u đã lớn và lan tràn tới các khu vực gây ra các triệu chứng rõ ràng và không thể khắc phục. Tuy nhiên, ở giai đoạn này nếu khối u còn nhỏ vẫn có thể điều trị bằng phẫu thuật.

Giai đoạn cuối: Khối u đã rất lớn và liên quan đến cả vùng nội sọ hoặc lan đến môi và miệng, phá hủy các hạch bạch huyết. Giai đoạn này là giai đoạn xâm lấn và di căn. Lúc này tỉ lệ sống khoảng 39,1%.

Các phương pháp điều trị

Theo thông tin đăng tải trên trang SKĐS, sau khi được chẩn đoán, các bác sỹ sẽ xác định giai đoạn của bệnh, căn cứ vào giai đoạn bệnh cùng một vài yếu tố khác để quyết định kế hoạch điều trị và tiên lượng bệnh. Các biện pháp điều trị chính hiện nay gồm có: Xạ trị, phẫu thuật và hóa trị.

Xạ trị : Đối với ung thư vòm họng giai đoạn sớm xạ trị vẫn là biện pháp quan trọng nhất có thể chữa khỏi với tỉ lệ sống thêm 5 năm đạt tới 97 -100%. Đối với ung thư vòm họng giai đoạn tiến triển tại chỗ thì xạ trị đơn thuần cho thấy tỉ lệ tái phát và di căn sau điều trị rất cao, thời gian sống thêm 5 năm thấp từ 10% – 40%.

Phẫu thuật: Phẫu thuật không có vai trò quá quan trọng trong điều trị triệt căn vì vòm họng thông tường ở vị trí hẹp, thưởng chỉ áp dụng để sinh thiết hạch chẩn đoán mô bệnh học hoặc lấy hạch còn lại sau khi xạ trị.

Hoá trị: Trước đây hoá trị chỉ áp dụng điều trị bệnh ung thư vòm họng khi đã có di căn xa hoặc tái phát mà xạ trị không còn khả năng kiểm soát. Xu hướng mới hiện nay là hoá- xạ trị kết hợp đối với bệnh nhân ở giai đoạn tiến triển tại vùng bao gồm: điều trị hoá chất tân bổ trợ, điều trị hoá chất bổ trợ, và điều trị hoá chất xen kẽ trong thời gian xạ trị.

Theo các nhà khoa học, ngoài các phương pháp điều trị cơ bản như trên, hiện nay đang nỗ lực nghiên cứu các biện pháp điều trị mới dựa trên sinh học phân tử, công nghệ gen, miễn dịch học… và bước đầu đã cho thấy hiệu quả điều trị tích cực.

Tiên lượng bệnh phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn bệnh khi được phát hiện, nếu được phát hiện và điều trị ở giai đoạn sớm tỷ lệ sống trên 5 năm sau điều trị có thể lên tới trên 70%, nhiều trường hợp khỏi hẳn.

Với ung thư vòm giai đoạn muộn, tỷ lệ tái phát và di căn sau điều trị rất cao, tỷ lệ sống thêm trên 5 năm thấp từ 10% tới 40%. Tiên lượng bệnh còn phụ thuộc nhiều vào thể ung thư, ung thư biểu mô không biệt hóa có tiên lượng tốt nhất vì rất nhạy cảm với tia xạ, ung thư mô liên kết có tiên lượng kém nhất.

Các tác dụng phụ thường gặp của hóa trị ung thư

Phương pháp hóa trị trở thành một mô thức không thể thiếu trong việc điều trị hầu hết các loại ung thư, đặc biệt những ung thư ở giai đoạn lan rộng và giai đoạn di căn.

Khởi đầu là các hóa chất mang tính độc cho tế bào. Ngày nay, chúng được bổ sung bằng thuốc hoóc-môn, thuốc miễn dịch, thuốc điều trị nhắm trúng đích… nên dù tác động chủ yếu trên tế bào ung thư, các chất này cũng làm ảnh hưởng nhất định lên các tế bào lành của cơ thể, gây ra các tác động bất lợi hay còn gọi là tác dụng phụ.

BS.CKI. Lâm Phương Nam, Đơn vị Hóa trị liệu ung thư – BV.ĐHYD TP.HCM thông tin trên báo SKĐS, hóa trị có rất nhiều tác dụng phụ nhưng thường gặp nhất trong điều trị là các nhóm sau:

Giảm các dòng tế bào m.áu ngoại biên : Các thuốc chống ung thư có thể làm c.hết các tế bào m.áu ngoại biên: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu; một dòng, hai dòng hay cả ba dòng tế bào m.áu, gây ra những bệnh lý tương ứng sau:

Thiếu m.áu: Thường xảy ra sau nhiều đợt hóa trị. Trường hợp nặng phải điều trị bằng truyền hồng cầu lắng, nhẹ hơn có thể dùng thuốc kích thích tăng trưởng hồng cầu (epoetin alfa, bêta, darbepoetin alfa), sulfate sắt uống. Sử dụng thuốc pemetrexed phải dùng kèm với vitamin B và acid folic. Cần duy trì Hb của bệnh nhân ở mức 10 – 12g/dl.

Giảm bạch cầu, đặc biệt là giảm bạch cầu hạt: làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể, dẫn đến dễ bị n.hiễm t.rùng nặng, nguy hiểm tính mạng.

Giảm bạch cầu hạt độ IV (Neutrophile dưới 500/mm3) kèm sốt: một cấp cứu nội khoa cần nhập viện, cách ly bảo vệ, sử dụng kháng sinh mạnh, phổ rộng truyền TM như nhóm carbapenem (imipenem, meropenem), piperacillin-tazobactam, cefepime.

Ngoài ra, cần dùng thuốc kích thích tăng trưởng bạch cầu (filgrastim) cùng các biện pháp hỗ trợ khác giúp bệnh nhân nhanh chóng thoát khỏi tình trạng giảm bạch cầu hạt nguy hiểm (dưới 1.000/mm3). Các thuốc thường gây giảm bạch cầu hạt: nhóm taxane (docetaxel, phác đồ TAC), cytarabine, topotecan.

Phòng ngừa: Nếu bệnh nhân được chỉ định các thuốc thường gây giảm bạch cầu hạt nói trên, bác sĩ cần đặc biệt chú ý. Sau mỗi đợt hóa trị, phải kiểm tra m.áu trong khoảng thời gian 10 – 14 ngày để xác định mức độ giảm bạch cầu.

Nhắc nhở bệnh nhân tái khám ngay khi có sốt trên 38,5oC hay lạnh run hoặc thấy khó chịu khác thường. Nếu tình trạng này thường xuyên xảy ra, nên cân nhắc sử dụng thêm filgrastim hoặc giảm liều, đổi thuốc hay phác đồ khác cho bệnh nhân.

Giảm tiểu cầu: Cũng thường xảy ra sau nhiều đợt hóa trị.

Buồn nôn và nôn ói: Các thuốc thường gặp gây nôn ói cao: (carmustin, cisplatin, cyclophosphamide> 1500 mg/m2); trung bình (doxorubicin, epirubicin, oxaliplatin, ifosfamide).

Vấn đề quan trọng là cần phòng ngừa trước khi xảy ra nôn vì khi đã nôn rồi thì khó kiểm soát triệu chứng.

Phòng ngừa: Sử dụng trước, trong và sau hóa trị với các thuốc kháng receptor serotonin 5HT3 như nhóm setron (ondansetron, granisetron, palonosetron), benzamide (metoclopramide), corticosteroid (dexamethasone)…

Suy nhược, mệt mỏi: Rất thường gặp sau khi truyền thuốc hóa trị ung thư. Có thể làm bệnh nhân suy nhược, khó thở, chán ăn, hạn chế hoạt động thể lực. Ở những bệnh nhân trước đó có phẫu thuật hay xạ trị, tình trạng này có thể nặng hơn.

Thường liên quan đến các tình trạng thực thể của bệnh nhân như thiếu m.áu, n.hiễm t.rùng, trầm cảm và đau đớn. Nên xác định có các tình trạng này hay không? Nếu có, cần điều trị thích hợp.

Rụng tóc : Cơ chế tác động của các loại thuốc chống ung thư là gây hại cho các tế bào có khả năng sinh sản, tăng trưởng nhanh (đặc trưng của tế bào ung thư). Do đó, nó cũng ảnh hưởng đến các tế bào có độ tăng trưởng tương đối nhanh của cơ thể, đó là tế bào biểu bì và phần phụ của da như nang lông, móng… làm rụng tóc (thường gặp nhất), rụng lông ở các phần khác nhau của cơ thể.

Rụng tóc rất ảnh hưởng về mặt tâm lý, nhất là đối với bệnh nhân nữ. Tuy nhiên, tác dụng phụ này có thể hồi phục sau khi kết thúc việc hóa trị. Việc tư vấn và trấn an cho bệnh nhân về tác dụng phụ này là cần thiết để bệnh nhân an tâm điều trị.

Các thuốc chống ung thư thường gây rụng tóc: Cyclophosphamide, docetaxel, doxorubicin, epirubicin…

Viêm niêm mạc miệng: Tình trạng này thường gặp ở những bệnh nhân kết hợp điều trị hóa trị và xạ trị trong điều trị ung thư đầu, mặt, cổ hoặc do các thuốc như methotrexate, capecitabin, 5-fluorouracil, cisplatin, carboplatin…

Biểu hiện có thể từ nhẹ đến nặng, làm bệnh nhân đau đớn hạn chế ăn uống.

Điều trị: kết hợp điều trị giảm đau, giữ vệ sinh răng miệng, không để khô miệng, sử dụng thuốc kháng nấm (mycostatin, fluconazole), thuốc chống virút Herpes…

Trong quá trình hoá trị ung thư, người bệnh nên ăn nhiều rau hoa quả, ăn súp, cá và trứng, sữa chua, uống nước chanh, ngũ cốc nguyên hạt. Do hóa trị gây chán ăn nên các thực phẩm này dễ ăn và tránh bị đi ngoài.

Trong quá trình hoá trị ung thư, người bệnh nên ăn nhiều rau hoa quả, ăn súp, cá và trứng, sữa chua, uống nước chanh, ngũ cốc nguyên hạt. Do hóa trị gây chán ăn nên các thực phẩm này dễ ăn và tránh bị đi ngoài. Có thể uống rượu vang để tăng cảm giác thèm ăn.

Độc tính thần kinh ngoại biên: Cảm giác từ nhẹ đến nặng gồm tê, bị châm chích, tê mất cảm giác hoàn toàn ở các đầu chi. Nếu không được điều trị đúng mức, có thể lan đến phần còn lại của các chi.

Thường gặp khi điều trị với các thuốc thuộc nhóm Vinca alkaloids (vincristine, vinblastine, vinorelbine), muối platin (cisplatin, carboplatin, oxaliplatin), nhóm taxane (paclitaxel, docetaxel). Oxaliplatin còn gây ra cảm giác đau tê, đặc biệt khi tiếp xúc với đồ vật lạnh, tình trạng này gặp trên 90% số bệnh nhân.

Hiện nay, chưa có thuốc nào được chứng minh làm giảm tác dụng phụ này. Vì vậy, nếu tác dụng phụ trở nên nặng, bệnh nhân không chấp nhận được, cần cân nhắc việc giảm liều hoặc đổi sang thuốc khác.

Độc tính trên tim: Nhóm fluoropyrimidine, nhóm anthracycline, trastuzumab.

Phòng ngừa: Nếu có chỉ định sử dụng các thuốc này, cần hỏi kỹ t.iền sử bệnh tim mạch, khám lâm sàng tim mạch, làm siêu âm tim trước điều trị cũng như theo dõi sát chức năng tim mạch trong quá trình điều trị. Trường hợp xảy ra biến cố tim mạch, tùy mức độ mà cân nhắc việc giảm liều, tạm ngưng hoặc ngưng hẳn các thuốc trên.

Bệnh ung thư đang có chiều hướng gia tăng trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Ngoài các mô thức điều trị ung thư truyền thống (phẫu trị, xạ trị, hóa trị), các nhà khoa học vẫn đang đi sâu tìm kiếm, nghiên cứu các phương thức mới điều trị ung thư hiệu quả hơn.

Chuyên gia chỉ “bí kíp” ngừa ung thư vòm họng

Các dấu hiệu ung thư vòm họng rất mờ hồ khó phát hiện sớm, khoảng 98% đến viện ở giai đoạn muộn nên điều trị gặp nhiều khó khăn.

chuyen gia chi bi kip ngua ung thu vom hong 2d8 5270455

Các bác sĩ khuyên rằng, nên hạn chế ăn mặn, vì ăn quá nhiều muối là nguy cơ gây ung thư vòm họng. Ảnh: ST

Theo Bệnh viện Nhân dân 115 (TPHCM), các triệu chứng của ung thư vòm họng rất mơ hồ, khi có các triệu chứng tái đi tái lại như nghẹt mũi, xịt mũi ra mủ hoặc m.áu, người bệnh nên đến bác sĩ tai mũi họng để tầm soát, chẩn đoán ung thư.

Ung thư vòm họng khó can thiệp bằng phẫu thuật, do đó các liệu pháp kết hợp giữa hoá trị và xạ trị là những lựa chọn khả thi hơn cả.

Ở giai đoạn sớm, xạ trị đơn thuần có thể kiểm soát được tế bào ung thư. Tỉ lệ xạ trị ngay giai đoạn đầu có thể kéo dài thời gian sống thêm 5 năm đạt tới 97-100%.

Đối với ung thư vòm họng giai đoạn tiến triển tại chỗ thì xạ trị đơn thuần cho thấy tỉ lệ tái phát và di căn sau điều trị rất cao, thời gian sống thêm 5 năm thấp từ 10% – 40%. Do đó nếu ung thư vòm họng không phải giai đoạn đầu, các bác sĩ sẽ sử dụng phác đồ phối hợp hoá – xạ trị.

Với ung thư vòm họng di căn, vị trí đầu tiên thường là di căn xương, nền sọ, kế đó là di căn phổi, gan. Khoảng hơn một nửa bệnh nhân có nhiều hơn một vị trí di căn.

Tại Việt Nam chưa có thống kê cụ thể tỉ lệ sống của bệnh nhân ung thư vòm họng, tuy nhiên theo nghiên cứu tại Mỹ từ 2009 đến 2015 cho thấy, số người sống sót sau 5 năm phát hiện ung thư vòm họng ở giai đoạn 1 là 82%, phát hiện ở giai đoạn 2 là 73%, giai đoạn 4 là 48%.

Tuy nhiên, tùy theo thể trạng và tâm lý của bệnh nhân mà thời gian sống của họ có thể khác nhau.

Còn tại Anh, có khoảng 80% bệnh nhân ung thư vòm họng sẽ sống được ít nhất 1 năm kể từ khi chẩn đoán, 50% sống được sau 5 năm.

Các bác sĩ khuyên rằng, nên hạn chế ăn mặn, vì ăn quá nhiều muối là nguy cơ gây ung thư vòm họng. Rượu chứa nhiều chất cồn, mỗi ngày kích thích vùng khoang miệng của chúng ta chắc chắn sẽ gây thay đổi tế bào học vùng khoang miệng, từ đó gây ra nhiều bệnh lý khác chứ không chỉ có ung thư vòm họng.

Ngoài ra, hút t.huốc l.á rất có hại. Trong khói thuốc có gần 238 các chất độc hại khác nhau, có thể kích thích vùng vòm họng, là một trong những yếu tố nguyên nhân gây ung thư vòm họng.

Một số nguyên nhân khác như ô nhiễm môi trường, chúng ta hít phải các bụi độc hại, ô nhiễm cũng là nguyên nhân gây ung thư vòm họng.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *