Thuốc kháng sinh ngày càng được sử dụng phổ biến trong đời sống hiện đại nhằm điều trị các bệnh lý nhiễm khuẩn.
Theo thống kê, tại Việt Nam, hiện thuốc kháng sinh chiếm đến hơn 50% số lượng dược phẩm. Tuy nhiên trong quá trình điều trị bằng thuốc kháng sinh, có không ít người gặp phải tình trạng dị ứng với thuốc gây nguy hiểm thậm chí có khả năng đe dọa tính mạng nếu không được xử trí kịp thời.
Dị ứng thuốc là gì?
Dị ứng thuốc là phản ứng không mong muốn của thuốc do đáp ứng miễn dịch đặc hiệu của cơ thể với loại thuốc đó. Theo Tổ chức Dị ứng Thế giới (WAO), phản ứng dị ứng miễn dịch xảy ra do sử dụng thuốc được chia thành 2 loại: Loại thứ nhất là dị ứng thuốc nhanh, thường xảy ra sau vài giờ dùng thuốc như mày đay hay nguy hiểm hơn là phản vệ do thuốc; loại thứ hai là dị ứng thuốc chậm có thể xảy ra sau vài ngày thậm chí vài tuần dùng thuốc, là một thể bệnh rất nguy hiểm của dị ứng thuốc.
Phù Quinck là một dị ứng thuốc nguy hiểm khi dùng kháng sinh.
Về mặt lâm sàng của dị ứng kháng sinh rất đa dạng tuỳ theo loại và mức độ nghiêm trọng của phản ứng và cơ quan bị ảnh hưởng. Những yếu tố như loại thuốc sử dụng, tính chất của căn bệnh đang điều trị và tình trạng miễn dịch của bệnh nhân được xem là đóng vai trò quan trọng trong biểu hiện lâm sàng của những đáp ứng này.
Các hình thái lâm sàng thường gặp là: Nhiễm độc da dị ứng, mày đay cấp, hội chứng Stevens-Johnsons, đỏ da toàn thân, hồng ban nhiễm sắc cố định, hồng ban đa dạng, phù Quinck, sốc phản vệ…
Một số loại thuốc kháng sinh có thể làm tăng nguy cơ gây ra các phản ứng dị ứng cho người bệnh trong quá trình sử dụng bao gồm:
Nhóm kháng sinh cephalosporin như: cefotetan, cephalexin, cefuroxim, cefazolin, cefadroxil, cefprozi,cefixime, cefaclor.
Nhóm kháng sinh penicillin như penicillin V, ticarcillin, dicloxacillin, oxacillin, piperacillin, penicillin G, ampicilin, amoxicillin.
Phản ứng dị ứng muộn từ việc sử dụng thuốc kháng sinh ít xảy ra hơn. Tuy nhiên tình trạng này thường nghiêm trọng và có khả năng đe dọa tính mạng người bệnh. Trong các trường hợp dị ứng với kháng sinh thường xảy ra, đáng lo ngại nhất là penicillin.
Đây là kháng sinh đầu được tìm ra và áp dụng vào điều trị và cũng chính penicillin g.ây s.ốc phản vệ do dùng kháng sinh. Sốc phản vệ là tai họa khủng khiếp, là trường hợp nặng nhất của dị ứng thuốc, có thể dẫn đến khó thở, hạ huyết áp, trụy mạch và t.ử v.ong có thể xảy ra chỉ trong vài phút nếu không được cấp cứu kịp.
Nguyên nhân gây dị ứng
Nguyên nhân gây dị ứng thuốc kháng sinh là do cơ địa nhạy cảm với các thành phần của thuốc, yếu tố di truyền (t.iền sử gia đình mắc bệnh), hệ miễn dịch suy yếu. Những người có t.iền sử về dị ứng như: dị ứng thời tiết, dị ứng thức ăn, hen phế quản, viêm mũi dị ứng, đặc biệt là người dị ứng thuốc… sẽ có khả năng dị ứng cao hơn khi sử dụng thuốc.
Việc dùng thuốc không đúng chỉ định của bác sĩ, không đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng, dùng quá liều lượng, dùng kết hợp nhiều loại thuốc cùng lúc, dùng trong thời gian kéo dài hay việc kết hợp nhiều loại thuốc một lần mà không biết chúng phản ứng chéo, tương tác lẫn nhau cũng dễ gây dị ứng thuốc.
Làm gì để dự phòng?
Dị ứng thuốc kháng sinh là một bệnh lý nguy hiểm, có khả năng đe dọa tính mạng bệnh nhân nếu không kịp thời xử lý. Vì thế, cần tuân thủ nghiêm ngặt việc sử dụng thuốc để làm giảm nguy cơ. Cần ghi nhớ nguyên tắc chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết, tốt nhất là dùng thuốc theo sự chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc.
Nếu phải dùng thuốc, đọc kỹ hướng dẫn sử dụng, kiểm tra nguồn gốc của thuốc, đồng thời theo dõi sát sao, nhất là lần đầu tiên uống thuốc. Khi có bất kỳ triệu chứng bất thường nào xảy ra, việc đầu tiên cần làm là phải ngừng ngay các thuốc nghi ngờ, nếu không xác định được chính xác thì nên tạm dừng tất cả các thuốc đang uống và phải tới ngay cơ sở y tế để điều trị và chăm sóc tốt nhất. Việc ngừng thuốc nghi ngờ quyết định tới 50% khả năng điều trị thành công, còn lại là phần chăm sóc chống bội nhiễm và dinh dưỡng bồi phụ dịch nâng cao thể trạng.
Khi đã có t.iền sử dị ứng thuốc cần có một quyển sổ theo dõi ghi lại các thuốc nghi ngờ hay đã biết chắc chắn là mình bị dị ứng. Khi bị bệnh, cần dùng thuốc đợt sau phải thông báo ngay cho bác sĩ và dược sĩ biết là đã từng bị dị ứng với loại thuốc kháng sinh này và mức độ nghiêm trọng để bác sĩ có chỉ định phù hợp.
Mùa đông ngứa ngáy cào xước da, dễ nhiễm khuẩn: Chuyên gia chỉ 6 cách đơn giản để hết ngứa
Tình trạng ngứa ngáy vào mùa đông rất hay gặp ở nhiều người, nếu cố gãi mạnh làm xước da thì nguy cơ vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm khuẩn là rất lớn.
Các bệnh về da hay gặp phải vào mùa đông
BSCK II Đặng Bích Diệp – Trưởng Phòng Công tác xã hội, Bệnh viện Da liễu Trung ương cho biết, mùa đông ngoài vấn đề khô da gây ngứa thì thời tiết lạnh, khô hanh cũng làm bùng phát các bệnh da mạn tính như viêm da cơ địa (chàm), mày đay, vảy nến… Trong đó, có những trường hợp t.rẻ e.m bị viêm da cơ địa nặng, vảy nến thể nặng (vảy nến thể mảng, vảy nến thể mủ, đỏ da toàn thân vảy nến) cần điều trị nội trú.
Ngứa do lạnh
Là vấn đề rất thường gặp, thông thường biểu hiện ngứa có thể từ lâm râm đến dữ dội, nhất là vào ban đêm khi ngủ, đặc biệt trời càng lạnh thì càng ngứa dữ dội.
Thực tế, có nhiều người ngứa không chịu được nên gãi làm trầy xước da, c.hảy m.áu, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập gây n.hiễm t.rùng.
Tình trạng ngứa da rất nhiều người gặp phải trong mùa đông.
Lý giải về nguyên nhân gây tình trạng ngứa mùa đông, bác sĩ Diệp cho biết, đó là do chức năng điều tiết của tuyến mồ hôi, tiết bã bị hạn chế nên làm cho da bị khô. Bình thường da tiết ra những chất hữu cơ (chất béo tự nhiên) cùng với mồ hôi giúp da nhờn, đàn hồi chống lại sự xâm nhập của các loại vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng, bụi bẩn… Khi thời tiết khô lạnh, da ít tiết mồ hôi và các chất béo tự nhiên khiến da bị khô và nứt nẻ sinh ngứa.
Bệnh chàm (hay viêm da cơ địa)
Thường gặp ở những người có t.iền sử dị ứng, biểu hiện của bệnh là tổn thương khô da chân, mặt, tróc vảy, đỏ. Vào mùa đông, bệnh trở nên nghiêm trọng hơn. Bệnh này hay gặp ở trẻ nhỏ từ 2 tháng đến 2 t.uổi, còn gọi là chàm.
Khi bị chàm, trẻ có biểu hiện khởi đầu là đỏ da, sẩn, mụn nước, tiết dịch, đóng vảy, rồi bong vảy. Vị trí thường ở hai má, có thể lan đến cằm, da đầu, trán. Bệnh nặng có thể lan đến mặt, dưới cánh tay, khuỷu, da đầu, thân mình, tứ chi.
Bệnh mày đay
Là bệnh ngoài da hay gặp với triệu chứng là những mảng sẩn phù, kích thước và số lượng thay đổi, có thể ở bất cứ vị trí nào trên da, khi mày đay khỏi không để lại dấu vết gì. Tuy nhiên người bệnh rất ngứa, khó chịu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Trường hợp nặng, người bệnh có thể kèm theo đau bụng, khó thở, sốt.
Bệnh vảy nến
Là bệnh về da thường gặp vào mùa đông, tổn thương là các dát đỏ có vảy trắng, vảy dày, dễ bong. Vị trí hay gặp là khuỷu tay, đầu gối, rìa tóc, vùng xương cùng, mông.
Tuy nhiên sau một thời gian tiến triển các thương tổn có thể lan ra toàn thân. Mùa đông da khô dễ ngứa, chà xát nhiều, có thể là điều kiện thuận lợi làm bệnh phát triển lên.
Ths. BSCK II Đặng Bích Điệp cho biết bảo vệ da đúng cách nhất là vào mùa đông là vô cùng quan trọng.
Làm sao để bảo vệ da mùa đông?
– Mọi người cần giữ ấm cho cơ thể, ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, tránh tiếp xúc với hoá chất tẩy rửa, hạn chế tiếp xúc với môi trường lạnh, giữ vệ sinh cơ thể sạch sẽ.
– Không nên mặc quần áo quá chật, bằng vải len, sợi tổng hợp vì dễ gây kích ứng da. Đeo khẩu trang, găng tay và mặc quần áo bảo hộ lao động khi tiếp xúc với môi trường có nhiều hoá chất độc hại. Hạn chế gãi, cắt ngắn móng tay để tránh gãi khi ngứa làm tăng nguy cơ n.hiễm t.rùng da.
– Không tắm nước lá, nước quá nóng, xà phòng. Không tự ý điều trị tránh làm nặng bệnh. Bôi dưỡng ẩm thường xuyên và đúng cách để bảo vệ làn da. Khi đã tuân thủ hướng dẫn mà bệnh diễn biến nặng hơn, người bệnh cần đến cơ sở y tế chuyên khoa để được điều trị phù hợp.
Mùa đông nên dưỡng ẩm da để chống khô da, ngứa ngáy.
– Sử dụng các sản phẩm làm sạch nhẹ nhàng hơn bằng cách chọn sử dụng một sản phẩm có khả năng làm sạch nhưng vẫn giữ lại được độ ẩm cần thiết để bảo vệ và chăm sóc da tốt hơn.
Với da khô, ngoài việc tập trung vào các loại sữa rửa mặt chứa nhiều thành phần dưỡng ẩm thì tần suất rửa mặt cũng có thể được điều chỉnh xuống 1 lần/ ngày (buổi tối) nếu quá nhạy cảm.
– Tẩy tế bào c.hết ít hơn: Tần suất tẩy tế bào c.hết có thể được giảm xuống vào mùa đông vì lúc này da dễ nhạy cảm hơn. Có thể tẩy da c.hết 1 lần/tuần để tăng tốc độ tái tế bào đồng thời tạo điều kiện cho các sản phẩm hấp thụ tốt hơn. Tuy nhiên, vì tẩy tế bào c.hết vật lý có thể khiến da bị tổn thương nên có thể cân nhắc lựa chọn sản phẩm tẩy tế bào c.hết hóa học.
– Sử dụng dưỡng ẩm phù hợp với từng loại da, vị trí cơ thể, thời điểm: Dưỡng ẩm dạng mỡ có hiệu quả dưỡng ẩm hơn dạng cream và dạng lotion. Tuy nhiên, dạng mỡ gây cảm giác khó chịu, dính và nhờn. Dưỡng ẩm dạng mỡ nên bôi vào buổi tối, dạng cream hoặc dạng lotion vào ban ngày. Khi tổn thương khô nhiều nên dùng dạng mỡ.
Với tổn thương ở mặt nếu thuộc loại da nhờn hay có mụn trứng cá thì không nên dùng các loại dưỡng ẩm có khả năng gây mụn (hay dùng là glycerin). Với tổn thương khô da nhiều ở bàn tay, bàn chân thì nên sử dụng dưỡng ẩm có ure.
Cách bôi dưỡng ẩm: Bôi dày, ít nhất 2 lần/ngày, nên bôi ngay sau tắm hay rửa mặt 5 phút. Có thể phối hợp với các phương pháp điện di, siêu âm dẫn thuốc, mesotherapy để tăng cường tạo ẩm cho da, giúp làn da khỏe mạnh, hồng hào. Cùng với đó, không quên sử dụng chống nắng đầy đủ, đúng cách; chú ý uống đủ nước, ăn rau xanh, hoa quả, tập luyện thể dục đều đặn.