Nếu chỉ khư trú trong gan thì tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 28%. Nếu ung thư đã di căn sang cơ quan lân cận thì tỷ lệ này chỉ còn 7%.
Tại Việt Nam, ung thư gan là bệnh ung thư phổ biến số một. Đây cũng là bệnh ung thư khó phát hiện ở giai đoạn sớm, có tiên lương xấu. Năm 2020 nước ta có thêm 26.418 ca mắc ung thư nhưng cũng ghi nhận 25.272 ca t.ử v.ong.
Yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ mắc ung thư gan
Ung thư gan gồm ung thư gan nguyên phát và thứ phát. Ung thư gan thứ phát do các tế bào ung thư ở các bộ phận khác của cơ thể đi vào gan gây ra các khối u di căn. Ung thư gan nguyên phát là bệnh lý ác tính của gan xảy ra khi tế bào bình thường của gan trở nên bất thường về hình thái và chức năng. Các tế bào ung thư phát triển gây ảnh hưởng đến mô bình thường liền kề và có thể lây lan sang các vùng khác của gan cũng như các cơ quan bên ngoài gan.
Ung thư gan nguyên phát gồm 3 loại chính: ung thư biểu mô tế bào gan (phát triển từ tế bào gan), ung thư biểu mô đường mật (phát triển từ đường mật trong gan) và u nguyên bào gan (Hepatoblastoma). Trong đó ung thư biểu mô tế bào gan là hay gặp nhất.
TS.BS Phạm Tuấn Anh, Phó Trưởng khoa Điều trị yêu cầu, Bệnh viện K cho biết nguyên nhân gây bệnh ung thư gan đến nay vẫn chưa được xác định rõ. Tuy nhiên, một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh như giới tính (thường gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới), những người mắc bệnh gan mãn tính ( xơ gan), gan nhiễm mỡ, viêm gan B, viêm gan C, béo phì, nhiễm độc tố aflatoxin do nấm mốc…. Ngoài ra, nguyên nhân gây ung thư gan có thể liên quan đến các yếu tố môi trường, chế độ ăn uống lạm dụng rượu bia, t.huốc l.á…
Dấu hiệ u cảnh báo bệnh ung thư gan
Ung thư gan ở giai đoạn đầu thường rất khó phát hiện. Phần lớn người bệnh đến khám khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn muộn gây khó khăn cho việc điều trị. Ở giai đoạn sớm của ung thư có thể gặp các triệu chứng của viêm gan mạn tính hoặc xơ gan tiến triển:
– Chán ăn
– Đau, nặng tức vùng hạ sườn phải
– Trướng bụng
– Vàng da, củng mạc mắt,…
Trong giai đoạn muộn hơn của ung thư gan, các triệu chứng trên rõ ràng hơn, hoặc xuất hiện thêm các biến chứng của bệnh:
– Sụt cân không rõ nguyên nhân
– Buồn nôn, nôn, mệt mỏi, chán ăn
– Luôn có cảm giác ngứa
– Trướng bụng
– Đau, nặng tức vùng hạ sườn phải
– Vàng da, củng mạc mắt.
– Đi ngoài phân trắng/bạc màu.
Ung thư gan rất khó chữa
Ung thư gan là bệnh có tiên lượng xấu. Tiên lượng bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bệnh tiên lượng tốt khi bệnh phát hiện ở giai đoạn sớm, thể trạng bệnh nhân tốt, không kèm theo các bênh lý về gan (xơ gan, viêm gan virus…). Bệnh tiên lượng xấu khi phát hiện ở giai đoạn muộn, thể trạng kém, kèm thêm các bệnh lý về gan (xơ gan, viêm gan virus mạn tính…).
Cũng theo BS Tuấn Anh, điều trị ung thư gan là điều trị đa mô thức. Việc lựa chọn phương pháp điều trị ung thư gan phải phụ thuộc vào mức độ lan rộng của tổn thương và tình trạng xơ gan. Các phương pháp điều trị ung thư gan phổ biến bao gồm: phẫu thuật, ghép gan, phá hủy u tại chỗ, nút hóa chất động mạch gan, xạ trị, hóa trị hay điều trị nhắm trúng đích…
Ung thư gan rất khó chữa khỏi, vì bệnh thường không được phát hiện ở giai đoạn đầu. Khi điều trị thành công, ung thư gan có thể không bao giờ khỏi hoàn toàn, vì vậy việc theo dõi là rất quan trọng. Thống kê về ung thư gan rất khó áp dụng cho một bệnh nhân cụ thể, vì các hình thức, giai đoạn và phản ứng với điều trị khác nhau ở mỗi cá nhân.
Nếu ung thư gan khu trú (khu trú trong gan), tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 28%. Nếu ung thư gan di căn (đã phát triển sang các cơ quan lân cận), tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 7%. Một khi ung thư gan di căn xa (di căn đến các cơ quan hoặc mô ở xa), thời gian sống sót sẽ thấp đến 2 năm.
Ung thư gan hiện nay vẫn là nỗi ám ảnh với nhiều người vì tiên lượng khó hơn các bệnh ung thư khác và đặc biệt đây là căn bệnh đang gia tăng ở Việt Nam.
Theo BS Tuấn Anh, cách tốt nhất để phòng ngừa, phát hiện ung thư gan là khám sức khỏe định kỳ siêu âm gan 6 tháng/lần, đặc biệt là những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao như xơ gan, viêm gan mạn tính do rượu, viêm gan virus B, C,…. Ngoài ra tiêm đầy đủ vắc xin phòng viêm gan B, tránh tiếp xúc với các hóa chất độc hại dễ làm tổn thương gan để giảm nguy cơ mắc bệnh.
Khi nghi ngờ mắc ung thư gan, bác sĩ sẽ chỉ định xét nghiệm m.áu, thăm chụp cắt lớp, sinh thiết gan… để đưa ra kết luận chính xác.
Đau bụng, nước tiểu sẫm màu: Cẩn trọng với ung thư gan
Tỷ lệ t.ử v.ong của ung thư gan rất cao do có tới 80-90% bệnh nhân đến viện quá muộn, ở giai đoạn cuối, lúc này các biện pháp can thiệp, điều trị rất hạn chế.
Tại Việt Nam, gần 20 năm qua, ung thư gan cũng gia tăng rất nhanh. Năm 2000, chỉ có 5.700 ca ung thư mới mắc, tăng lên 9.400 ca năm 2010, đến năm 2018, ung thư gan mới mắc ở hai giới là 25.335 ca, trong đó nam giới chiếm 19.500 ca..
Ung thư gan nguyên phát là bệnh lý ác tính của gan xảy ra khi tế bào bình thường của gan trở nên bất thường về hình thái và chức năng. Các tế bào ung thư phát triển gây ảnh hưởng đến mô bình thường liền kề và có thể lây lan sang các vùng khác của gan cũng như các cơ quan bên ngoài gan.
Ung thư gan nguyên phát gồm 3 loại chính: ung thư biểu mô tế bào gan (phát triển từ tế bào gan), ung thư biểu mô đường mật (phát triển từ đường mật trong gan) và u nguyên bào gan (Hepatoblastoma). Trong đó ung thư biểu mô tế bào gan là hay gặp nhất.
Những đối tượng có nguy cơ cao mắc ung thư gan
– T.iền sử gia đình có người bị ung thư gan.
– Mắc viêm gan B và viêm gan C.
– Viêm gan do nguyên nhân tự miễn, có thể đi kèm các bệnh tự miễn khác như: đái tháo đường type 1, bướu cổ, viêm khớp dạng thấp, lupus ban đỏ,….
– Gan nhiễm mỡ không do rượu.
– Các bệnh béo phì, tiểu đường làm tăng nguy cơ bị ung thư gan.
– Xơ gan do sử dụng rượu bia, các chất kích thích quá nhiều.
Những dấu hiệu cảnh báo ung thư gan
Đáng lưu ý, ung thư gan là loại ung thư có tỷ lệ t.ử v.ong hàng đầu cho cả hai giới. Đa số bệnh nhân đến khám khi đã giai đoạn muộn, thời gian sống trung bình không quá một năm. 60% đến viện khi đã ở giai đoạn trung gian và tiến triển, tỷ lệ được phát hiện sớm rất thấp.
Trong khi đó, ung thư gan chữa được nếu phát hiện sớm. Có rất nhiều cách chữa trị như phẫu thuật cắt bỏ phần gan có khối u, ghép gan, nút mạch gan bằng hóa chất, xạ trị, hóa trị…
Dưới đây là các triệu chứng cảnh báo sớm ung thư gan mà mọi người cần chú ý:
Vàng da
Khi gan bị tổn thương, chức năng gan suy giảm khiến bilirubin trong cơ thể không được đào thải hết, dẫn tới bilirubin trong m.áu rất cao, gây hiện tượng vàng da. Vàng da là triệu chứng phổ biến thường gặp ở người ung thư gan.
Nước tiểu có màu tối
Cũng tương tự như vàng da, khi bilirubin trong m.áu tăng sẽ làm cho màu của nước tiểu thay đổi thành vàng sẫm đến nâu. Khi thấy nước tiểu thay đổi màu trong một thời gian dài, nhớ đi khám sức khỏe, bởi đó có thể là dấu hiệu của ung thư gan.
Sút cân
Chức năng quan trọng nhất của gan là chuyển hóa và giải độc. Khi gan tổn thương, chức năng gan giảm sẽ khiến các chất không được chuyển hóa hết, khiến hấp thu kém, bạn bị sút cân. Đây được coi là một triệu chứng quan trọng của bệnh ung thư gan.
Đau bụng
Gan suy giảm chức năng sẽ dẫn đến đau bụng. Triệu chứng này rất dễ nhận biết, vì vậy hãy lưu tâm khi bạn bị đau bụng cùng với gan nở rộng, rất có thể bạn đã mắc bệnh ung thư gan.
Ngứa
Ngứa có thể do nhiều nguyên nhân và là triệu chứng chung của nhiều bệnh nhưng đa phần các bệnh nhân ung thư gan đều thấy ngứa, nên đây cũng là một trong những dấu hiệu sớm của bệnh ung thư gan. Ngứa do ung thư gan là do sự tăng bilirubin trong cơ thể dẫn tới ngứa.
Cách phòng ngừa ung thư gan hiệu quả
– Tiêm phòng đầy đủ vắc xin viêm gan.
– Ngăn ngừa lây nhiễm viêm gan siêu vi: tránh tiếp xúc nguồn lây, không ăn đũa chung, dùng chung kim tiêm, hôn hít…
– Hạn chế hoặc bỏ bia, rượu, t.huốc l.á, đặc biệt với người đã có xơ gan, viêm gan virus.
– Không dùng thuốc men bừa bãi. Hầu hết các thuốc đều chuyển hóa qua gan, lạm dụng thuốc có thể gây suy gan, nhất là những người có bệnh gan mạn tính, vì đây cũng là nguy cơ có thể gây ung thư gan..
– Tránh ăn, tiếp xúc với các hóa chất độc hại làm tổn thương gan như nấm mốc chứa aflatoxin, dưa chua chứa nitrosamine, thịt rán cháy chứa nitrosamine….
– Khám sức khỏe định kỳ có siêu âm gan ít nhất mỗi 6 tháng/lần đặc biệt là những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao (xơ gan, viêm gan mạn do rượu, viêm gan virus B, C,…).