Theo các bác sĩ, phương pháp gây tê tủy sống đối mặt với nhiều biến chứng nguy hiểm như biến chứng về thần kinh gây liệt, tổn thương thần kinh; Biến chứng về tim mạch gây hạ huyết áp, nhịp chậm,…
Ảnh minh họa.
Mới đây, một sản phụ sau khi được bác sĩ Bệnh viện phụ sản Mê Kông tiêm thuốc gây tê để mổ bắt con đã bị tai biến liệt nửa người…
Hiện nay có nhiều thông tin liên quan đến kỹ thuật gây tê tủy sống khi thực hiện phẫu thuật mổ lấy thai. Theo các bác sĩ, phương pháp gây tê tủy sống khi sinh mổ là phương pháp gây tê vùng, từng được khen là phương pháp hiện đại giúp sản phụ bớt đau đớn.
Bác sĩ sẽ tiêm thuốc vào vùng dịch não tủy ở vị trí giữa lưng để gây tê cục bộ. Sản phụ vẫn tỉnh táo, nhịp tim và huyết áp điều hòa ổn định trong quá trình mổ lấy thai. Xác suất nguy hiểm cho trẻ sơ sinh được đ.ánh giá là ở mức thấp nhất.
Tuy nhiên, khi xảy ra biến chứng sinh sản, phương pháp này lại cực kỳ nguy hiểm. Một số người cảm thấy buồn nôn, chóng mặt, nhức đầu, khó thở, vị trí tiêm đau buốt sau 30 phút tiêm. Một số trường hợp phản ứng mạnh với thuốc, gây rối loạn nhịp tim, co giật và hôn mê.
Theo Bác sĩ cao cấp, CKII gây mê hồi sức Lê Tuyên Hồng Dương – Giám đốc Chuyên môn Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Bắc Hà, Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Hội gây mê Việt Nam chia sẻ trên báo SKĐS, gây tê tủy sống có nhiều ưu điểm nhưng bên cạnh đó cũng có những hạn chế và tác dụng phụ nhất định như: tụt huyết áp, đau đầu, đau lưng, đau vùng chọc kim…
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới cũng như ở nước ta nhưng chưa công trình nào chỉ ra được nguyên nhân chính xác gây triệu chứng đau đầu này.
Có một số giả thuyết như trong quá trình gây tê làm rách màng cứng khiến cho dịch tủy thoát ra ngoài, chọc kim nhiều lần, kim to quá gây thoát dịch, tổn thương dây chằng khi kỹ thuật viên thực hiện gây mê chưa thực sự tốt. Nhưng tất cả những điều đó vẫn còn đang được tranh luận.
Việc làm thế nào để giảm các biến chứng này phụ thuộc nhiều vào các loại thuốc gây tê, kỹ thuật và kinh nghiệm của bác sĩ gây mê hồi sức.
Các khuyến cáo trên thế giới đưa ra về quy trình gây tê tủy sống cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Người thực hiện kỹ thuật phải được đào tạo chính quy và có kinh nghiệm thực hành tốt, sử dụng các loại thuốc gây tê đảm bảo theo đúng quy định của cơ quan quản lý.
Quan trọng nhất vẫn là kỹ thuật của người gây tê, cỡ kim gây tê, tuân thủ nguyên tắc không chọc kim qua nhiều lần trên cùng một khe đốt sống, nếu chọc 2 lần không được phải chuyển vị trí.
Hiện tại trong kỹ thuật gây tê đã sử dụng những loại kim nhỏ G25 đến G27 trong gây tê tủy sống. Các bác sĩ gây mê hồi sức được đào tạo chính quy, có kinh nghiệm thực hành lâm sàng, thường xuyên được đào tạo và cập nhật kiến thức liên tục nên các biến chứng và tai biến trong gây tê tủy sống rất hiếm xảy ra.
Trên thị trường có nhiều loại thuốc gây tê tủy sống được cấp phép sử dụng tại Việt Nam, tuy nhiên không thể tránh được những tác dụng không mong muốn có thể xảy ra.
Bất cứ một loại thuốc nào khi đưa vào cơ thể người cũng có thể có tác dụng phụ nhưng tùy vào mức độ phản ứng khác nhau để có giải pháp, phác đồ xử lý khác nhau. Tuy nhiêncác bác sĩ khuyến cáo nên sử dụng thuốc có nguồn gốc rõ ràng của các công ty lớn có uy tín trên thế giới được cơ quan quản lý nhà nước cấp phép sử dụng. Tại các cơ sở cần tuân thủ đúng quy định bảo quản thuốc theo quy chế Cục Quản lý Dược đã ban hành.
BS. CKII Lưu Kính Khương – Trưởng khoa Gây mê hồi sức ngoại, Bệnh viện Nhân dân 115 thông tin trên trang của bệnh viện cho biết, các vấn đề thường gặp sau gây tê tủy sống như biến chứng về thần kinh gồm liệt, tổn thương thần kinh. Đây là biến chứng rất hiếm gặp.
Có nhiều nguyên nhân gây ra tổn thương thần kinh sau gây tê như: Do kim gây tê/catheter, do chèn ép, m.áu tụ ngoài màng cứng, thiếu m.áu nuôi thần kinh, hay độc tính của thuốc tê lên dây thần kinh.
Thông thường bên cạnh mất cảm giác đau người bệnh cũng sẽ liệt vận động vùng được gây tê. Tuy nhiên, vận động và cảm giác sẽ hồi phục sau khi hết tác dụng của thuốc tê (khoảng 4 – 6 giờ). Nếu các triệu chứng này kéo dài cần báo ngay cho nhân viên y tế.
Hội chứng chùm đuôi ngựa thường có triệu chứng đau thắt lưng, tê quanh h.ậu m.ôn và tiêu tiểu mất tự chủ; đau đầu, hạ huyết áp, nhịp chậm, n.hiễm t.rùng, biến chứng về hô hấp như khó thở, và ngưng thở … đều là các biến chứng có thể gặp khi gây tê.
Vì những nguy cơ về tác dụng phụ của phương pháp gây tê tủy sống khi sinh mổ, Bộ Y tế năm 2017 đã có văn bản văn bản về việc khuyến cáo:
Theo công văn của Bộ Y tế, qua công tác theo dõi, giám sát và thẩm định t.ử v.ong mẹ tại các địa phương, cũng như ý kiến phản ánh của một số đơn vị, Bộ Y tế nhận thấy: trong một số trường hợp phẫu thuật lấy thai (mổ bắt con) bằng phương pháp gây tê tuỷ sống trên các sản phụ có rau t.iền đạo thể trung tâm hoặc bán trung tâm, rau bong non, t.iền sản giật, sản giật… có nguy cơ cao xảy ra một số tai biến như bệnh cảnh của tắc mạch ối, ngừng tim, rối loạn đông m.áu, suy đa tạng.
Bộ Y tế đề nghị các đơn vị trực thuộc cần sử dụng phương pháp gây mê nội khí quản đối với các sản phụ có các tình trạng nêu trên, không thực hiện phương pháp gây tê tuỷ sống nhằm phòng tránh các tai biến nghiêm trọng có thể xảy ra đối với sản phụ.
Bất cứ một phương pháp nào cũng có tác dụng ngoại ý, tuy nhiên nếu kiểm soát tốt thì gây tê tuỷ sống vẫn là phương pháp an toàn trong vô cảm khi mổ lấy thai. Cần phải tôn trọng các chống chỉ định để không xảy ra tai biến cho sản phụ.
Đẻ mổ lần 2 đau “chết đi sống lại”, lý do vì sao?
Về cơ bản, những bà mẹ phải sử dụng phương pháp sinh mổ trong lần đầu sinh con thì đến lần sinh thứ hai sẽ phải áp dụng cách thức này. Và lần sinh mổ thứ 2 sẽ đau đớn hơn lần đầu rất nhiều.
Một bà mẹ sinh mổ lần 2 kể lại trải nghiệm của mình: “Sau lần mổ lấy thai đầu tiên được tiêm thuốc mê, trong quá trình sinh tôi cảm thấy mọi thứ thật nhẹ nhàng, không có gì nghiêm trọng. Nhưng tới lần thứ hai, tôi có cảm giác thuốc mê, thuốc tê không có tác dụng với mình. Tôi cảm nhận rõ được dao rạch vào bụng mình. Lúc đó, tôi đã hét lên nhưng bác sĩ nói ca mổ vẫn phải tiếp tục. Ca mổ chỉ nửa tiếng nhưng tôi cảm thấy mình như sắp c.hết tới nơi rồi”.
Vậy tại sao lần mổ thứ 2 lại đau đớn hơn lần đầu? Dưới đây là 4 nguyên nhân:
Kháng thuốc mê
Thường sinh con đầu lòng nếu sinh mổ, khi sử dụng thuốc tê, thuốc mê, người mẹ hầu như không bị đau đớn. Nhưng lần thứ 2 thì khác. Nhiều bà mẹ nói rằng tác dụng của thuốc mê rất ngắn, không duy trì được hết ca mổ, cơn đau dữ dội, cảm nhận thấy rõ bác sĩ đang tác động vào bụng mình như thế nào.
Lần sinh mổ thứ 2, nhiều mẹ kháng thuốc mê, thuốc tê dẫn đến cơn đau trong quá trình phẫu thuật cảm nhận được rõ (ảnh minh họa)
Tâm lý sợ hãi hơn
Mặc dù thuốc mổ được xử lý bằng thuốc ây mê nhưng đây vẫn là ca mổ nguy hiểm, nhiều bà mẹ đã thấu hiểu được đau vết mổ sau lần đầu là như thế nào.
Những bóng đen tâm lí đó đã khiến các bà mẹ sợ hãi hơn trong lần sinh mổ thứ 2. Vì vậy, khi phải đối diện với điều đó một lần nữa, theo bản năng, các bà mẹ sợ hãi hơn và dẫn đến các cơn đau co bóp, đau hơn.
Những cơn đau của lần sinh mổ thứ nhất trở thành nỗi ám ảnh đối với các mẹ bầu sinh con lần 2 khiến (Ảnh minh họa)
Tăng cơn đau do co thắt tử cung
Sinh mổ cũng có những cơn co thắt và cơn đau chuyển dạ. Đặc biệt là sau khi mổ, tử cung sẽ tiếp tục co bóp và tiết dịch â.m đ.ạo sau khi sinh, giống như sinh thường. Vì vậy, trong lần thứ 2, cơn đau do cơn co tử cung sẽ tăng lên vì chịu sự cộng hưởng từ vết mổ cũ.
Phục hồi chậm do lần rạch thứ hai trên cùng một chỗ
Ca sinh mổ thứ 2 được thao tác trên chính vết mổ lần đầu tiên. Vết sẹo cũ được bác sĩ cắt bỏ đi, tiếp tục phẫu thuật trên đó. Do đó, vết mổ mới này sẽ phục hồi chậm hơn, khó khăn và đau đớn hơn. Tất nhiên nó phụ thuộc vào thể chất của mỗi người.
Vết mổ lần 2 được thực hiện đúng trên vết mổ lần đầu nên đau và khó phục hồi hơn (Ảnh minh họa)
Những lưu ý với các mẹ bầu đã từng sinh mổ:
Vết mổ và tử cung phục hồi tốt trong lần đầu
Nhiều bà mẹ sinh con đầu lòng bằng phương pháp mổ lấy thai chưa lành vết mổ, tử cung có sẹo vết mổ sẽ bị vỡ khi sinh con thứ 2. Trường hợp nặng sẽ đe dọa đến tính mạng của mẹ và bé. Do đó khi mang bầu lần 2, mẹ bầu phải lưu ý chuyện này.
Lần mang bầu thứ 2 phải cách một khoảng thời gian đủ an toàn
Nói chung, những bà mẹ đã sinh mổ lần đầu, cần cân nhắc, xem xét kế hoạch sinh con lần 2, đảm bảo đủ thời gian để tử cung phục hồi. Thời gian tối thiểu là sau khoảng 2- 3 năm. Như vậy sẽ đảm bảo an toàn cho người mẹ.
Điều kiện thể chất của thai nhi
Các điều kiện cụ thể của thai nhi như trọng lượng, kích thước, vị trí thai, phát triển thể chất tốt… cũng là điều kiện tốt để mẹ bầu cân nhắc việc có thể sinh thường trong lần thứ 2 hay không.
Những bà mẹ đã sinh mổ lần đầu, cần cân nhắc, xem xét kế hoạch sinh con lần 2, đảm bảo đủ thời gian để tử cung phục hồi. (Ảnh minh họa)
Thể trạng của người mẹ
Nhiều bà mẹ không muốn sinh mổ lần thứ hai, và liệu họ có thể sinh con thành công hay không phụ thuộc vào kết quả khám của bác sĩ. Các bác sĩ sẽ đưa ra phương pháp sinh sản phù hợp dựa trên mong muốn của người mẹ nhưng cũng cần phải tuân thủ theo thể trạng của người mẹ có đủ an toàn hay không.
Thể trạng của người mẹ là điều kiện quan trọng nhất để quyết định sinh con, điều này đòi hỏi bác sĩ phải kiểm tra xem các điều kiện về ống sinh, khung xương chậu của mẹ có đáp ứng được không.